Mở rộng đối tượng, hợp lý hóa thủ tục vay vốn để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) TP HCM, giai đoạn từ tháng 1-2020 đến tháng 6-2024, tổng số lao động ở thành phố đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là 25.763 người. Các thị trường được người lao động (NLĐ) chọn đi làm việc là Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), với 4 nhóm ngành nghề: sản xuất chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, thuyền viên. Thu nhập bình quân từ 15 - 28 triệu đồng/người/tháng.
Nhiều bất cập
Từ Quỹ Quốc gia về việc làm và nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, thành phố đã giải ngân hơn 12.839 tỉ đồng để cho 202.763 lao động vay nhằm tự tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Song, mục đích vay vốn chủ yếu tập trung vào các nội dung kinh doanh, dịch vụ (88,1%), sản xuất tiểu thủ công nghiệp (7,9%), chăn nuôi, trồng trọt (4%), không có trường hợp nào vay vốn đi xuất khẩu lao động (XKLĐ).
Đại diện Sở LĐ-TB-XH TP HCM cho hay giai đoạn 2021-2025, thành phố đã thực hiện một số chính sách hỗ trợ NLĐ thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Cụ thể là chính sách hỗ trợ không hoàn lại (gồm đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết, tiền ăn trong thời gian đào tạo, chi phí đi lại, chi phí làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài) và chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ nguồn vốn cho vay hỗ trợ giảm nghèo (được vay tối đa theo giá trị của hợp đồng, không thế chấp tài sản; thời hạn vay tối đa 120 tháng, riêng hộ mới thoát nghèo thời gian vay tối đa là 60 tháng; lãi suất cho vay 0,5%/tháng, 6%/năm).
Thời gian qua, chính sách hỗ trợ này đã được thông tin rộng rãi đến các địa phương nhưng số lao động thụ hưởng còn hạn chế do mức hỗ trợ đào tạo còn thấp so với chi phí đào tạo thực tế. Ngoài ra, NLĐ thuộc hộ nghèo, cận nghèo đa phần là lao động phổ thông, chưa có tay nghề nên việc tiếp thu kiến thức từ các chương trình đào tạo, trình độ kỹ thuật, ngoại ngữ còn hạn chế. "Trong khi đó, yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp (DN) nước ngoài ngày càng cao, NLĐ khó đáp ứng điều kiện để ra nước ngoài làm việc" - đại diện Sở LĐ-TB-XH đánh giá.
Người lao động chia tay người thân tại sân bay Tân Sơn Nhất (TP HCM) trước khi sang Nhật Bản làm việc
Còn ông Bùi Văn Sổn, Phó Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội (CSXH) - Chi nhánh TP HCM, cho rằng theo quy định, đối với mức vay từ 100 triệu đồng trở lên, NLĐ vay vốn ưu đãi để đi XKLĐ phải có tài sản bảo đảm tiền vay. Thực tế số tiền vay để đi làm việc ở nước ngoài thấp nhưng phải thế chấp tài sản (chủ yếu là nhà, đất) có giá trị cao nên NLĐ chọn các hình thức vay khác.
"Chương trình cho vay tự tạo, duy trì và mở rộng việc làm là giải pháp căn cơ để hỗ trợ NLĐ thoát nghèo bền vững. Hiện nay, nhu cầu vay vốn của NLĐ để tự tạo việc làm, bao gồm cả đi XKLĐ là rất lớn" - ông Sổn nói.
Gỡ khó cho người lao động
Ông Trần Thanh Hải, Hiệu trưởng Trường CĐ Viễn Đông (quận 12, TP HCM), cho biết trường đã được Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ LĐ-TB-XH) cấp phép đưa điều dưỡng sang Đức làm việc từ năm 2020. Từ thực tiễn tại trường cho thấy hiện nay, một số thị trường lao động nước ngoài đòi hỏi NLĐ trước khi đi phải đáp ứng một số tiêu chuẩn tối thiểu về ngoại ngữ.
NLĐ muốn đi, ngoài bỏ thời gian theo học còn phải tốn từ 20 - 40 triệu đồng để học ngoại ngữ, chưa kể mất khoản thu nhập vì không thể đi làm trong thời gian học. Trong khi đó, để được vay vốn từ Ngân hàng CSXH, NLĐ phải có hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài mới được giải quyết, điều này gây khó khăn cho NLĐ.
Nên chăng có khoản tín dụng từ Ngân hàng CSXH cho đơn vị, DN có chức năng đưa NLĐ đi XKLĐ vay dựa trên số lượng lao động đầu ra (do DN đề xuất và bảo đảm). "Trường hợp NLĐ đi được, khoản nợ đó sẽ được chuyển từ DN sang NLĐ và NLĐ có trách nhiệm hoàn trả. Ngược lại, nếu NLĐ không đạt tiêu chuẩn để đi thì DN hoàn trả khoản vay cho ngân hàng" - ông Hải đề xuất.
Theo luật sư Trần Hữu Tín, Trưởng Văn phòng Luật sư Tín và Cộng sự, Luật Việc làm hiện hành quy định đối tượng vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chỉ giới hạn tại 5 nhóm lao động (người dân tộc thiểu số, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, bị thu hồi đất nông nghiệp, thân nhân người có công với cách mạng), trong khi thực tế còn nhiều đối tượng khó khăn khác cũng cần được hỗ trợ nhưng không có cơ hội tiếp cận nguồn vay ưu đãi để đi XKLĐ.
Nguồn: nld.com.vn